MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Thực trạng và nguyên nhân

  1. Thực trạng

* Mặt mạnh

Phân môn Toán trong chương trình giảng dạy Toán lớp 2 chiếm một vị trí quan trọng trong bậc Tiểu học. Nó là nền tảng cho việc học tốt môn Toán ở các lớp tiếp theo của bậc Tiểu học và Trung học sau này.

Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2. bản thân tôi cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng;  mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.

*Hạn chế

Với thực tế học sinh lớp tôi còn có một số em giải toán có lời văn thiếu chính xác, chưa đúng, tính toán còn sai, nhiều khi làm bài chưa có kỹ năng phán đoán, suy luận, không biết làm thế nào ? Các em rất sợ học. Mà môn toán là môn “Thể thao trí tuệ” vừa giúp các em giải trí tinh thần, vừa giúp việc dạy tốt môn toán là điều cần thiết mà giáo viên cần quan tâm.

Năm học 2016 – 2017 tôi được phân công dạy lớp 2. Lớp có 20 học sinh.. Cha mẹ các em đều làm nông nên việc hướng dẫn, nhắc nhở con em còn chưa được quan tâm lắm. Còn phó mặc cho nhà trường và giáo viên. Nên trong giờ học toán các em còn làm bài sai nhiều.

Tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm như sau:

Tổng số 9 – 10 7 – 8 5 – 6 1 – 4
20 3 5 5 7

 

Qua kết quả khảo sát trên cho thấy tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá cao, thoi thúc tôi phải tìm hiểu xem các em hỏng kiến thức toán ở nội dung nào và qua đó để giúp các em lấp được lỗ hỏng kiến thức ấy vào cuối năm học này.

  1. Nguyên nhân

Từ kết quả khảo sát biết được tỉ lệ học sinh có khả năng chưa hoàn thành môn học này chiếm tỉ lệ khá caolà do những nguyên nhân sau:

– Thứ nhất, là do các em có năng lực học tập còn khó khăn, không theo kịp chưong trình dẫn đến chán học. Đặc biệt là từ khi toàn ngành thực hiện cuộc vận động “Hai không” và đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh “ lấy điểm kiểm tra định kỳ để đánh giá” xếp loại.

– Thứ hai, phải theo hoặc phụ giúp gia đình làm ăn theo mùa vụ (coi trông nhà, không có ngưòi đưa đón đi học).

– Thứ ba, công tác phối hợp giữa gia đình và nhà trường còn hạn chế, gia đình coi việc học của con em mình là nhiệm vụ của nhà trường hoàn toàn, cũng một phần là do giáo viên còn thiếu kinh nghiệm ( Không biết học sinh mình hỏng kiến thức chỗ nào để lấp).

  1. Biện pháp/giải pháp thực hiện
  2. Điều tra, phân loại đối tượng học sinh

Qua điều tra đầu năm, tôi phân loại những em còn gặp khó khăn về loại toán điển hình nào để tôi kịp thời kèm cặp các em.

Lớp tôi có các em: Tân, Phúc, Duy, Dương, Hân, Ý, Sơn là những em còn khó khăn trong giải toán . Các em thường sợ làm loại toán này. Các em không biết giải, hay trả lời sai, làm tính không đúng.

Trong các giờ lên lớp, tôi luôn động viên các em suy nghĩ tìm ra cách giải. Tôi thường xuyên kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng điểm số nếu các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ giải toán.

Về nhà: Tôi yêu cầu các em làm lại bài toán vừa giải ở lớp để các em nắm vững cách giải. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm đầy đủ bài tập giáo viên giao.  Ngoài ra tôi còn giao cho những em có năng lực giải toán mỗi em giúp một em còn khó khăn trong giải toán. Lập thành đôi bạn cùng tiến.

2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học

Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài trước vài ngày để có thêm thời giannghiên cứu, hiểu kỹ yêu cầu nội dung của bài học.

Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh hoạt, không bị gò ép, phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quan chủ động tích cực trong giải Toán.

  Ở  lớp hai: Các em được ôn lại các dạng toán lớp 1 và luyện thêm  các dạng toán này với các số trong phạm vi 100, giúp các em hiểu mối quan hệ giữa các đối tượng với các dữ kiện đơn giản của bài toán. Từ đó hình thành tư duy học toán cho học sinh, giúp các em phân tích, tổng hợp, giải được các dạng toán nhanh, chính xác. Bước đầu có kỹ năng trình bày bài toán.

Hình thức rèn luyện: Học sinh nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán để thể hiện khả năng chính mình.

Vai trò của người thầy rất quan trọng. Lời phát biểu của các em dù đúng hay sai, tôi cũng phải có lời động viên hợp lý. Nếu học sinh phát biểu sai, hoặc chưa đúng, tôi  động viên “gần đúng rồi, em cần suy nghĩ thêm nữa, thì sẽ đúng hơn …” giúp các em cố gắng suy nghĩ làm bằng được, chứ không nên nói “sai rồi, không đúng …” làm mất hứng của học sinh, ức chế học sinh tự ti, chán học.

Bước này là bước quan trọng giúp học sinh không sợ giải toán, thích thi nhau làm để khẳng định mình, từ đó có kỹ năng giải toán vững chắc với lời giải thông thường .

Ví dụ 1 bài 3 trang 63: Mảnh vải màu xanh dài 34dm, mảnh vải màu tím ngắn hơn mảnh vải màu xanh 15dm. Hỏi mảnh vải màu tím dài bao nhiêu đê-xi-mét?

Một số học sinh trình bày bài giải như sau:

Số dm mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím  là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Tôi liền  đưa ra các bài học sinh giải lên bảng, chỉ ra từng chỗ sai cụ thể cho học sinh và để học sinh so sánh đối chiếu các bài với nhau: bài trình bày sai- bài trình bày đúng để học sinh thấy được chỗ sai của mình.

Bài giải được trình bày như sau:

Độ dài mảnh vải màu tím là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Hoặc:

Mảnh vải màu tím dài là:

34 – 15 = 19 (dm)

Đáp số: 19 dm

Thường khi giải bài toán có lời văn với các số đo độ dài, học sinh thường viết cả tên đơn vị cùng với số đo hoặc viết tắt tên đơn vị đo ở câu lời giải.

Đối với bài toán có lời văn mà có số đo độ dài, tôi phải hướng dẫn học sinh cách trình bày bài giải cho đúng từ, câu trả lời đến các phép tính.

Ví dụ 2:  Thùng thứ nhất đựng 25 lít dầu. Thùng thứ hai đựng 30 lít dầu. Hỏi thùng nào đựng nhiều dầu hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Có học sinh giải như sau :

Số lít dầu thùng đựng nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (lít)

Đáp số : 5 lít

Tôi hỏi :  Ta cần tìm điều gì ?

Học sinh trả lời : Thùng nào đựng nhiều hơn và nhiều hơn bao nhiêu lít ?

Tôi lại  hỏi tiếp : Câu trả lời này đã nói rõ điều đó chưa ? Còn thiếu ý nào ?

Lúc này học sinh sẽ nhận ra trong câu trả lời này chưa nêu được thùng nào đựng nhiều hơn và phải bổ sung và chữa vào bài giải là :

Thùng thứ hai đựng nhiều hơn và nhiều hơn là :

30 – 25 = 5 (l)

Đáp số : 5 lít.

Bên cạnh việc cung cấp đủ trọng tâm bài học, rèn cách luyện tập thành thạo, tôi còn luôn quan tâm tới việc mở rộng, nâng cao kiến thức từ chính những bài tập trong SGK, vở bài tập toán.

  1. Từ tư duy đúng, tìm được cách giải đúng giúp các em trình bày bài giải đúng

Hợp lý về lời giải, về phép tính, cách ghi tên đơn vị và ghi đáp số để hoàn thiện bài toán.

Bước này tuy đơn giản nhưng tương đối khó với học sinh. Đó là lời văn ngắn gọn, chính xác, đúng nội dung bài để trả lời (phép tính tìm gì ?) theo thứ tự.

Lời giải: lời giải – phép tính – đáp số.

Cần lưu ý:Phép tính trong giải toán có lời văn không ghi tên đơn vị (danh số) đó là phép tính trên số nên đặt tên đơn vị trong vòng đơn để giải thích, mục đích thực hiện phép tính.

Ví dụ: Lớp 2A có 37 học sinh, trong đó có 18 học sinh nữ. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh nam?

Giáo viên phải đưa ra 1 số câu hỏi đàm thoại gợi ý học sinh gặp khó khăn trong học tập suy đoán, lựa chọn cách giải đúng.

Trước tiên phải hướng dẫn học sinh tóm tắt đầu bài.

                                                Tóm tắt:

Lớp 2A có            : 37 học sinh

Nữ                        : 18 học sinh

Nam                     : … học sinh?

Hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn chính xác.

                                                        Giải
                                    Số học sinh nam lớp 2A có là:

37 – 18 = 19 (học sinh)

Đáp số : 19 học sinh nam.

  1. Tìm cách giải đúng chưa đủ, giáo viên còn giúp học sinh tìm nhiều cách đặt lời giải để phát huy trí lực học sinh tạo điều kiện cho tư duy toán phát triển

Bước này đối với học sinh còn khó khăn trong giải toán là tương đối khó. Song người giáo viên phải hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh thể hiện được khả năng giải toán của mình là cần thiết.

Ví dụ: Lan cắt được 46 bông hoa, Hoa cắt ít hơn Lan 9 bông hoa. Hỏi Hoa cắt được bao nhiêu bông hoa?

Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng cách vẽ sơ đồ (nếu vẽ được) để tìm ra cách giải đúng, và nhiều cách khác.

                                                 Tóm tắt

Lan                                  : 46 bông hoa

Hoa cắt ít hơn Lan            : 9 bông hoa

Hoa cắt                              : … bông hoa?

 

Giải cách 1   

Hoa cắt được số bông hoa là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Nhìn vào sơ đồ các em tìm lời giải khác

 

 

9 bông hoa

Lan

? bông hoa

Hoa

 

Có em sẽ giải như sau :

Giải cách 2

Số bông hoa Hoa cắt được là:

46 – 9 = 37 ( bông hoa)

Đáp số: 37 bông hoa

Giáo viên giải thích cho học sinh hiểu : Thực ra hai lời giải này cùng là tìm số bông hoa của Hoa cắt. Dù các em có nhìn vào sơ đồ thì vẫn là tìm số bông hoa của hoa cắt: Tôi cho học sinh nhận xét.

Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách giải toán triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, để tìm   cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện.

  1. Kết hợp giải toán là rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán đúng tránh nhầm lẫn khi tính toán

Vì có những em nhiều khi cách giải đúng nhưng tính toán sai dẫn đến kết quả bài toán sai. Vậy tôi  phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày khoa học rõ ràng. Nếu  là phép + –  trong bảng học thuộc để vận dụng nhanh. Nếu là các phép + –  ngoài bảng các em phải đặt tính cột dọc.

  1. 6. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán

Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyếtcác bài tập trong “Vở bài tập toán 2”. Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100 học sinh trong lớp đủ bài các bài tập.

Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ?

Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời chữa chung cho nhiều em khác. Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm toán đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách :

+ Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như :  Tên đơn vị, kết quả…  vào ngay trong vở “Bài tập toán 2”, lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở toán khác do lớp quy định. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi  kiểm tra triệt để, cuối cùng phải chữa đúng mới thôi.

+ Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài, tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng toán khó học sinh rất ít sai sót.

  III. Hiệu quả và khả năng áp dụng

  1. Hiệu quả

Vận dụng phương pháp tổ chức các hoạt động cho học sinh vào bài dạy ở lớp tôi, tôi thấy kết quả cao hơn so với trước. Học sinh rất hứng thú tự tin và tích cực học tập, học sinh biết tư duy một cách độc đáo, linh hoạt sáng tạo. Học sinh tập trung hơn, giờ học sinh động hơn. Từ đó hiệu quả cuối năm học được nâng cao hơn rõ rệt qua bảng số liệu sau:

Kết quả cụ thể cuối năm:

Tổng số Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm  5 – 6 Điểm 1 – 4
20 9 7 4 0

Kết quả khảo sát đầu năm:

Tổng số Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm 1 – 4
20 3 5 5 7

 

*Đối với giáo viên:

Để thực hiện dạy một tiết Toán 2 có kết quả, đặc biệt là dạy các bài giải toán có lời văn thì điều cần thiết phải sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên để học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vào việc khai thác mọi tiềm năng trí tuệ của học sinh. Qua thực tế giảng dạy cho thấy sử dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên trong dạy học toán theo tôi là có hiệu quả, chất lượng của học sinh cao hơn, học sinh giải toán dễ dàng hơn. Bởi vì đây là các biện pháp, giải pháp tích cực,  là một yêu cầu cần thiết, phù hợp với đặc điểm phát triển tâm sinh lý các em.

*Đối với học sinh:

– Giúp học sinh hứng thú và tự tin hơn trong học và hành. Qua giờ học giải toán có lời văn, ngoài những kiến thức cơ bản học sinh còn được khuyến khích và rèn cách diễn đạt, cách suy nghĩ linh hoạt, góp phần phát triển ngôn ngữ và trình độ tư duy của học sinh qua môn toán lớp 2.

Our prices are quite reasonable to encourage customers to keep using assignment writing services https://midnightpapers.com/ to achieve their academic success.